Dưới đây là bài soạn văn 12 Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám những năm 1945 đến hết thế kỉ XX trong SGK ngữ văn 12 tập 1. Bài soạn này sẽ giúp các bạn nắm rõ được tổng quan kiến thức của bài. Những kiến thức trọng tâm, câu hỏi trong bài học sẽ được hướng dẫn trả lời một cách đầy đủ và chi tiết nhất.
Tham khảo thêm:
- Nền văn học của Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám là một nền văn học của chế độ mới và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản từ đó đã thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, tổ chức và những quan niệm về nhà văn kiểu mới: nhà văn - chiến sĩ- Từ năm 1945 đến 1975, đất nước đã diễn ra nhiều những sự kiện lớn, có tác động sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần dân tộc Việt Nam , trong đó có văn học nghệ thuật.
⇒ Trong những hoàn cảnh đặc biệt đó, văn học ở những giai đoạn 1945 - 1975 vẫn phát triển và vẫn đạt được những thành tựu to lớn.
Văn học Việt Nam từ những năm 1945 đến 1975 có thể chia làm 3 chặng. Thành tựu chủ yếu của mỗi chặng đường sẽ được chia như sau:
- Chiến tranh đã kết thúc, đời sống về tư tưởng tâm lý, những nhu cầu vật chất của con người đã có những thay đổi so với trước. Từ những năm 1975-1985 ta lại gặp phải những khó khăn về kinh tế sau cuộc chiến tranh liên tục kéo dài và đặc biệt cộng thêm là sự ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị sụp đổ.
- Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) được mở ra với những phương hướng mới thực sự cởi mở cho văn nghệ Đảng khẳng định: “Đổi mới có ý nghĩa sống còn là nhu cầu cần thiết nhất . Thái độ của Đảng là phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá với tiêu tiêu chuẩn là phải đúng sự thật, nói rõ sự thật”.
- Trường ca: “Những người đi tới biển” của nhà thơ Thanh Thảo
- Thơ: “Tự hát” của Xuân Quỳnh , “Xúc xắc mùa thu” của Hoàng Nhuận Cầm …
- Văn xuôi: “Đứng trước biển”, ” Cù lao tràm “, của Nguyễn Mạnh Tuấn, Thời xa vắng của Lê Lựu…
- Kí: “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường, “Cát bụi chân ai” của Tô Hoài.
“Nêu những nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hoá có những sự ảnh hưởng nhất định đến sự hình thành và phát triển của nền văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1975”
Tổng quan một vài nét chính về tình hình lịch sử, xã hội, văn hóa đã có những ảnh hưởng tới tình hình phát triển của nền văn học Việt Nam:
- Vì cách mạng tháng Tám thành công nên đã mở ra một kỷ nguyên mới độc lập, tự do.
→ Đã có những thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, quan niệm, tổ chức
- Từ những năm 1945- 1975 đất nước ta đã trải qua nhiều biến cố, sự kiện lớn, nó đã tác động tới đời sống vật chất và tinh thần.
→ Với hai cuộc chiến chống Pháp, Mỹ rất hào hùng
→ Với những công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc
⇒ Do những hoàn cảnh đặc biệt mà nền văn học Việt Nam đã phát triển và đạt được những thành tựu to lớn.
“Nền văn học Việt Nam từ những năm 1945 - 1975 phát triển đã trải qua mấy chặng đường? Nêu những thành tựu chủ yếu của mỗi chặng đường đó”
- Sự phát triển của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 có thể chia làm 3 chặng:
- Một số tác phẩm văn học trong những năm 1945-1946 đã phản ánh và làm rõ được cái không khí hồ hởi, vui sướng của nhân dân ta khi đất nước ta vừa giành được sự độc lập, tự do.
- Từ cuối những năm 1946, văn học đã tập trung phản ánh những cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Truyện ngắn và ký: Đôi mắt và Nhật ký ở rừng của nhà văn Nam Cao, Làng của nhà văn Kim Lân,Một lần tới thủ đô của Trận Phố Ràng và Trần Đăng, Kí sự Cao Lạng của Nguyễn Huy Tưởng Xung kích của nhà văn Nguyễn Đình Thi.…
- Thơ ca cũng đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc.
Tiêu biểu là những tác phẩm sau đây: Cảnh khuya, Cảnh rừng Việt Bắc, Rằm tháng giêng của tác giả Hồ Chí Minh; Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu,…
- Một số vở kịch đã gây được sự chú ý lớn như Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng…
- Lý luận, nghiên cứu, phê bình văn học: Nhận đường, Mấy vấn đề về nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi, Nói chuyện thơ ca kháng chiến của Hoài Thanh…
- Văn xuôi mở rộng đề tài, đã bao quát được khá nhiều vấn đề, ví dụ như nội dung tập trung thể hiện hình ảnh người lao động và ngợi ca những thay đổi của đất nước và con người trong XHCN.
- Thơ ca với những cảm hứng nổi bật về hiện thực cuộc sống và vẻ đẹp của con người trong chủ nghĩa xã hội cũng đã phát triển mạnh mẽ với các tập thơ: Gió lộng của Tố Hữu, Ánh sáng và phù sa của Chế Lan Viên,Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, … của Huy Cận.
- Kịch nói ở giai đoạn này cũng được coi là rất phát triển. Tiêu biểu là các vở kịch nói Một đảng viên của Học Phi, Ngọn lửa của Nguyên Vũ….
- Chủ đề bao trùm của văn học là khai thác đề tài chống Mỹ cứu nước và đề cao tinh thần yêu nước và ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
- Văn xuôi thì tập trung phản ánh và làm làm rõ cuộc sống chiến đấu và lao động, phác họa hình ảnh của những con người Việt Nam anh dũng, sắt đá, kiên trung, bất khuất: Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng …và rất nhiều tác phẩm đặc sắc khác.
- Thơ vào những năm chống Mỹ cứu nước cũng đã đạt được nhiều thành tựu xuất sắc. Thơ ca thể hiện rất rõ về những khuynh hướng mở rộng và đào sâu về những chất liệu hiện thực; đồng thời cũng tăng cường sức khái quát, chất suy tưởng, chính luận. Nhiều những tập thơ có để lại những dấu ấn đặc sắc như: Ra trận, Máu và hoa của nhà thơ Tố Hữu, Hoa ngày thường - Chim báo bão và Những bài thơ đánh giặc của nhà thơ Chế Lan Viên, Đầu súng trăng treo của Chính Hữu…
- Kịch cũng có những thành tựu đáng được chú ý. Các vở kịch gây được tiếng vang như: Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm,…
“Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 - 1975”
- Văn học phải là một thứ vũ khí, được phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và kháng chiến.
- Quá trình vận động, phát triển của nền văn học mới có thể ăn nhịp với từng chặng đường lịch sử của dân tộc Việt Nam , theo sát từng nhiệm vụ chính trị của đất nước tata.
- Các đề tài lớn như :
- Cảm hứng chủ đạo : Đất nước là của nhân dân.
- Nhân dân là những đối tượng phản ánh, đối tượng tiếp nhận và là một lực lượng sáng tác
- Nhân dân chi phối về mặt hình thức nghệ thuật, với những quan điểm liên quan thẩm mỹ.
- Các nhà văn đã quan tâm đến đời sống của những con người lao động, nỗi bất hạnh của những người lao động nghèo trong xã hội cũ.
- Đặc điểm:
- Khuynh hướng sử thi:
- Cảm hứng lãng mạn:
- Khuynh hướng sử thi kết hợp với khuynh hướng lãng mạn đã làm cho văn học giai đoạn này dần dần thấm nhuần những tinh thần lạc quan và đáp ứng được những yêu cầu phản ứng của quá trình vận động và phát triển cách mạng.
“Căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn hóa, hãy giải thích vì sao văn học Việt Nam từ những năm 1975 đến hết thế kỉ XX phải đổi mới như thế”
Văn học từ sau những năm 1975 đến hết thế kỷ XX phải đổi mới vì:
- Chiến tranh đã kết thúc, đất nước cũng đã thống nhất, từ đó đất nước bắt đầu bước vào thời kỳ mới - thời kỳ độc lập, tự do và thống nhất đất nước. Tuy nhiên, từ những năm 1975 đến 1985, đất nước chúng ta lại gặp những khó khăn, thử thách nhất là những khó khăn về kinh tế. Dựa vào tình hình đó nên đòi hỏi đất nước phải đổi mới.
- Đại hội Đảng lần thứ sáu năm 1986 đã chỉ rõ đổi mới là một nhu cầu cần thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn với toàn thể dân tộc
⇒ Từ đó đòi hỏi văn học phải đổi mới để phù hợp với nguyện vọng của cả nhà văn và người đọc.
- Từ năm 1986, với những công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản đề xướng và lãnh đạo, kinh tế nước ta từ đó từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, văn hóa nước ta cũng có điều kiện tiếp xúc rộng rãi với nhiều nước trên thế giới hơn. Văn học dịch, báo chí và các phương tiện truyền thông khác cũng đã phát triển mạnh mẽ. Từ đó thúc đẩy nền văn học cũng phải đổi mới để phù hợp với nguyện vọng của nhà văn và người đọc cũng như các quy luật phát triển khách quan của nền văn học Việt Nam .
“Hãy nêu những thành tựu ban đầu của văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỉ XX”
Những thành tựu ban đầu của văn học Việt Nam từ năm 1975 đến hết thế kỷ XX có thể kể đến như :
- Thơ ca: dù không đạt được sự lôi cuốn hấp dẫn nhưng cũng có sự đổi mới, mở rộng đề tài, nội dung, hình thức, có những tác phẩm cũng ít nhiều lôi kéo được sự chú ý của người đọc: Tự hát của Xuân Quỳnh, Ánh trăng của Nguyễn Duy…
- Văn xuôi khởi sắc: một số nhà văn đã bộc lộ ý thức muốn đổi mới cách viết về chiến tranh,với cách tiếp cận hiện thực đời sống như Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu,và những tuyển tập truyện ngắn tiêu biểu như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành và Bến quê của Nguyễn Minh Châu,…
- Từ năm 1986, văn học Việt Nam đã chính thức bước vào chặng đường đổi mới. Gắn bó hơn, cập nhật hơn về những vấn đề của đời sống hằng ngày. Các tập truyện ngắn như: Chiếc thuyền ngoài xa và Cỏ lau của tác giả Nguyễn Minh Châu, Tướng về hưu của tác giả Nguyễn Huy Thiệp; tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma của tác giả Nguyễn Khắc Tường…
- Những phóng sự xuất hiện, đề cập tới những vấn đề bức xúc của đời sống.
- Kịch nói cũng phát triển rất mạnh mẽ. Những vở kịch nổi tiếng như: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ, Mùa hè ở biển của Xuân Trình,… là những vở tạo được sự chú ý của người đọc .
- Lý luận, phê bình của văn học cũng có những sự đổi mới.
Ý kiến của tác giả Nguyễn Đình Thi, đã cho chúng ta thấy được mối quan hệ hai chiều giữa văn nghệ và kháng chiến:
- Kháng chiến là đối tượng, là chất liệu cho văn nghệ phản ánh hiện thực .
- Nhưng chính văn nghệ cũng đã đem lại cho cuộc sống kháng chiến có thêm những nguồn động lực mới .
Link nội dung: https://unie.edu.vn/soan-van-khai-quat-van-hoc-viet-nam-tu-cach-mang-thang-tam-nam-1945-den-het-the-ki-20-a57407.html