Tứ tử trình làng...

bich-thu.jpg
Bích Thu

Nhà văn Bích Thu

Nếu ai biết rõ thân thế sự nghiệp của chị thì đấy là “con nhà nòi” văn chương (thân phụ của chị là nhà văn Nguyễn Minh Vỹ). Bích Thu tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa 14 (1969 - 1973). Từ khi ra trường đến lúc nghỉ hưu, chị công tác ở Viện Văn học (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam); là PGS.TS, nghiên cứu viên cao cấp. Tác phẩm chính đã xuất bản: “Theo dòng văn học”, “Văn học Việt Nam, sáng tạo và tiếp nhận”, chưa tính đến viết chung gần 20 đầu sách. Trong đó tác phẩm “Văn học Việt Nam, sáng tạo và tiếp nhận” đã được tặng thưởng (Loại A) của Hội đồng Lý luận phê bình VHNT Trung ương năm 2016 và Giải thưởng VHNT Thủ đô năm 2016.

Nhà văn Bích Thu đúng là người “sống với văn chương cùng thời”. Thiên hạ hay nghĩ, phụ nữ làm nghề này, khó xông xáo giữa trường văn trận bút, điều này thuộc về phái tính như các cụ xưa nói. Nhưng chị đã nỗ lực nhiều để tạo được dấu ấn, sắc thái riêng trong phong cách phê bình: điềm đạm, sâu sắc, nghiêm ngắn khi tiếp cận văn chương từ góc độ lý thuyết vững vàng, nhưng mặn mà thực tiễn. So với thế hệ sau, trong lĩnh vực này, chị không có cái “bốc lửa” của sự trình hiện cá nhân. Chị có một loạt bài viết hay về thi pháp tiểu thuyết đương đại. Số người trong nghề viết được như thế, có thể nói, đếm đầu ngón tay. So với một số đồng nghiệp khác viết lý luận phê bình văn học, thì số lượng tác phẩm của chị không nhiều. Nhưng trong nghệ thuật có quy luật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Tôi nghĩ rất sát hợp với nhà văn Bích Thu. Nghỉ hưu rồi nhưng tôi vẫn thấy chị “trên từng cây số”, ngược Bắc vào Nam tham gia các Hội đồng chấm luận văn, luận án cũng như các sự kiện văn học lớn. Công thức của một nhà văn “đi - đọc - viết” đã được chị vận dụng triệt để. Nên ngoài 70 mà thần sắc vẫn sáng tươi

Lê Phương Liên

Nhà văn Lê Phương Liên

Trong buổi giao lưu “Văn nữ - Sống, viết và hi vọng” tổ chức dịp tháng 10/2022, tôi được tặng tiểu thuyết lịch sử “Nữ sĩ thời gió bụi” của Lê Phương Liên. Đọc lý lịch trích ngang về chị lại thêm một ngạc nhiên thú vị: Từng nhận giải học sinh giỏi văn miền Bắc (năm 1968), nhưng lại tốt nghiệp khoa Toán - Lý (Cao đẳng Sư phạm Hà Nội); từng là người của nghề “phấn trắng bảng đen” gần 10 năm; từ 1996 - 2015 là Giám đốc Quỹ Doraemon của NXB Kim Đồng; tác giả của gần 20 tác phẩm văn học thiếu nhi, đã nhận nhiều giải thưởng về văn học. “Câu hỏi trẻ thơ” là truyện ngắn đầu tay, nhận giải thưởng cuộc thi viết về “Thầy giáo và Nhà trường” (năm 1970).

Khởi đầu tốt đẹp đã tạo nên duyên văn của Lê Phương Liên, từ đó văn mạch của nữ sĩ chỉ tập trung hướng tới trẻ thơ và phụ nữ, tựa vào cái nhìn trong sáng, thánh thiện, tin tưởng và đồng cảm sâu sắc. Nhà văn Ma Văn Kháng đã ưu ái nhận xét: “Chị đã xuất phát từ một đầu nguồn tươi xanh trong trẻo, tha thiết yêu thương”. Đến với văn chương, Lê Phương Liên luôn có niềm đau đáu: “Từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành, tôi luôn sống với lòng yêu thương con người, nhất là những con người bé bỏng yếu ớt như trẻ em. Tôi luôn ước mong mình sẽ sống tốt đẹp hơn trong tình yêu thương ấy. Chính vì vậy mà tôi viết văn” (Tự bạch). Nhà văn Lê Phương Liên xứng đáng với danh hiệu cao quý - Huy chương Vì thế hệ trẻ. Không riêng tôi, mong muốn có thêm nhiều tài năng văn học như nữ sĩ Lê Phương Liên để trẻ thơ (và cả người lớn) được thưởng thức những tác phẩm hay của chính các nhà văn Việt Nam sáng tác.

img-1167.jpg
Lê Thị Bích Hồng

Nhà văn Lê Thị Bích Hồng

Vốn là cô giáo dạy văn ở Quảng Ninh, nhưng cơ duyên đã đưa Lê Thị Bích Hồng đến với Thủ đô, từng giữ chức Phó Vụ trưởng Vụ Văn hóa Văn nghệ Ban Tuyên giáo Trung ương; PGS. TS, giảng viên cao cấp trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Ở chị luôn tràn đầy năng lượng sống và viết, có phẩm tính 3 trong 1 “nhà giáo - nhà văn - nhà báo”. Tác giả có sáng tác truyện ký, nhưng sở trường là nghiên cứu/ lý luận/ phê bình văn học. Nét trội trong viết nghiên cứu/ lý luận/ phê bình của nhà văn Lê Thị Bích Hồng là nỗ lực tìm ra căn nguyên/ chân tủy văn hóa của các hiện tượng văn học. Các tác phẩm chính đã xuất bản: “Thơ với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”, “Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình”, “Bản sắc văn hóa Tày trong tản văn Y Phương”, “Thăng hoa cùng hành trình sáng tạo”, “Hoa chuối đỏ miền rừng PHJA BJOÓC”, “Điện ảnh Việt Nam với đề tài chiến tranh cách mạng”.

Phải nói ngay, các tác phẩm nghiên cứu/ lý luận/ phê bình của tác giả ít trưng lý thuyết hàn lâm, nếu thế dễ rơi vào học phiệt nếu không biết điều chỉnh. Tác giả có cái năng lực “bấu chặt” thực tiễn VHNT nước nhà, viết bằng toàn bộ kinh nghiệm sống, sự trải nghiệm văn hóa. Vì thế, những gì viết ra dễ đi vào người đọc, được tiếp nhận trên tinh thần đồng sáng tạo. Đó là kết quả lao động nghệ thuật không phải ai cũng dễ dàng đạt tới. Nhà văn Lê Thị Bích Hồng cũng là người hay đăng đàn diễn thuyết tại các sự kiện văn hóa, văn học nghệ thuật. Với tư cách nhà báo, ngòi bút của chị rất có duyên...

Nguyệt Vũ

Nhà văn Nguyệt Vũ

Vốn là học sinh chuyên toán (trường THPT chuyên Thái Bình), tốt nghiệp trường Đại học Thương mại Hà Nội, trường Kinh tế - Thương mại Lvov (Ucraina, Liên Xô trước đây), kinh qua vị trí Trưởng phòng Đối ngoại Công ty TNHH BBRAUN Việt Nam nhưng thơ ca đã chọn Nguyệt Vũ như một sự sắp đặt của số phận. Mấy bài thơ đầu tay “Tản mạn giọt mưa” và “Khao khát” (đăng trên báo Người Hà Nội, 2006); tập thơ đầu tay “Vũ điệu của trăng”, tiếp sau là “Dấu yêu ơi”, “Người tình trong mơ”. Nguyệt Vũ cũng là người bén duyên dịch thơ Nga với “Sương trắng bạch dương” (2010). Nhà thơ chia sẻ: “Tôi đã chọn thơ và sẽ đi cùng với thơ cho đến cuối con đường vì tôi, vì các độc giả của tôi, những người đã vinh danh tôi là nhà thơ” (Tự bạch). Tôi không nghĩ vì sành tiếng Nga, dịch nhiều thơ Nga nên thơ Nguyệt Vũ bị ảnh hưởng bởi ai đó, trường phái nào đó của thơ xứ sở bạch dương và tuyết trắng. Nếu như thế thì dễ dàng “bị lộ” và “hở sườn”, vì người giỏi tiếng Nga ở ta rất nhiều, họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra. Thơ Nguyệt Vũ thường bộc phát từ trong tâm khảm, được viết ra khi cảm xúc run bật và đong đầy. Cái đẹp trong thơ chị, theo tôi, chan chứa trữ tình và lấp lánh trí tuệ. Riêng tôi thích bài thơ có tựa “Đừng”: “Đừng.../ ném sỏi/ xuống mặt hồ tĩnh lặng/ Trái tim tôi chưa yên ổn/ bao giờ/ Đừng thổi sáo một mình trên/ đồng vắng/ Tôi đứa trẻ mục đồng/....vốn đã rất ngẩn ngơ/ Đừng xáo trộn.../ hoàng hôn bằng bếp lửa/ Cuối ngày rồi/ day dứt cháy khôn nguôi/ Đừng.../ nói với em/ bằng giọng quá bồi hồi/ Em chẳng chịu được đâu/ lao đến bên anh mà nức nở”…

Link nội dung: https://unie.edu.vn/trinh-lang-la-gi-a52267.html